Tạo cơ chế để phát triển kinh doanh nền tảng
Kinh doanh nền tảng (KDNT) bản chất là những hoạt động kinh tế được thực hiện dựa trên nền tảng khoa học-công nghệ. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc quản lý và phát triển KDNT không chỉ là yêu cầu cấp thiết mà còn là yếu tố quyết định sự thành công của nền kinh tế số Việt Nam.
Kinh doanh nền tảng đóng góp tích cực trong GDP
Hiện nay, Việt Nam có hơn 70.000 doanh nghiệp công nghệ số đang hoạt động, cao hơn mục tiêu 48.000 doanh nghiệp công nghệ số mà Chính phủ đề ra đến năm 2024. Sự phát triển nhanh chóng của cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số đã tạo nền tảng để mở rộng các dịch vụ kinh doanh số, trong đó có các dịch vụ nền tảng.
Thời gian qua, kinh tế số ở Việt Nam có tốc độ tăng trưởng nhanh. Theo số liệu của cơ quan thống kê, tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) các năm từ 2020 đến 2023 lần lượt là 12,66%; 12,88%; 12,63% và 12,33%. Sang đầu năm 2024, tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số đạt 18,3%, cao hơn tỷ lệ trung bình giai đoạn 2020-2023. Theo các chuyên gia, đây là động lực để Việt Nam thực hiện mục tiêu về tăng trưởng cao và phát triển bền vững trong thời gian tới.
Trong khi đó, hoạt động KDNT thông qua các ứng dụng phần mềm đang ngày càng phổ biến tại thị trường Việt Nam và có nhiều tác động tích cực tới nền kinh tế của đất nước. Tính đến tháng 6-2024, có khoảng 9.300 ứng dụng đang được sử dụng tại nước ta, riêng các nền tảng số do Việt Nam phát triển là 461 nền tảng, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm 2023. Năm 2022, KDNT đóng góp khoảng 10% trong GDP, trong đó, riêng KDNT ở lĩnh vực vận tải chiếm 16,8% giá trị tăng thêm của ngành nền tảng, tương đương 1,7% GDP của nền kinh tế.

Dù có nhiều cơ hội và tiềm năng, tuy nhiên, vẫn còn những thách thức cần phải giải quyết để thúc đẩy phát triển KDNT. Theo các chuyên gia kinh tế, tư duy, nhận thức trong quản lý nhà nước về những vấn đề mới còn chưa cởi mở; sự phát triển nhanh của các mô hình KDNT, kinh tế số khiến các quy định pháp lý và thể chế chưa theo kịp; hạ tầng phục vụ chuyển đổi số vẫn còn hạn chế, nhất là hạ tầng dữ liệu. Hiện cũng chưa có khái niệm pháp lý thống nhất về kinh tế nền tảng, điều này gây khó khăn trong xây dựng khung khổ pháp lý để kiến tạo, quản lý và phát triển KDNT.
Bên cạnh đó, hạ tầng số mặc dù đã có sự phát triển, tuy nhiên vẫn đang ở mức thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế số. Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu hai chiều từ hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương với dữ liệu quốc gia còn gặp khó khăn; vấn đề bảo mật, an toàn thông tin còn nhiều thách thức; nguy cơ các đối tượng tội phạm lợi dụng phần mềm kinh doanh để thực hiện hành vi lừa đảo còn hiện hữu. Đồng thời, việc đề xuất và xây dựng cơ chế để các doanh nghiệp có thể thử nghiệm những công nghệ, mô hình kinh doanh mới trong môi trường thực tiễn vẫn còn gặp nhiều vướng mắc và cần sự tháo gỡ kịp thời.
Quản lý hiệu quả các mô hình kinh doanh mới
Có thể thấy, KDNT đã tạo ra nhiều kết quả tích cực, thể hiện qua việc liên tục đạt mức tăng trưởng cao trong những năm qua và tiếp tục có sự đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Vì vậy, tư duy quản lý và hệ thống pháp luật cũng cần được đổi mới để thích ứng với xu hướng chuyển đổi số, tạo thuận lợi cho sự phát triển của KDNT. Với những tiền đề đã được tạo ra trong nhiều năm qua, kinh tế số nói chung và KDNT nói riêng sẽ tiếp tục là ngành chủ chốt đóng góp vào việc đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 8% trong năm 2025 và 2 con số trong những năm tiếp theo của nền kinh tế Việt Nam.
Cùng với đó, sự xuất hiện của kinh tế nền tảng cũng đang đặt ra bài toán đối với các cơ quan trong việc hoạch định chính sách nghiên cứu, hoàn thiện khung khổ pháp lý nhằm quản trị linh hoạt, kịp thời và bảo đảm khuyến khích sự sáng tạo đối với xu hướng phát triển mới, mô hình kinh doanh mới, qua đó khai thác hiệu quả lợi ích của các xu hướng và mô hình kinh doanh này.
Theo TS Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, để thúc đẩy kinh tế nền tảng phát triển, Chính phủ cần có quan điểm nhất quán và rõ ràng về phát triển mô hình KDNT; cần có tầm nhìn bao quát, toàn diện cũng như thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành thực chất hơn, hiệu quả hơn trong quá trình soạn thảo chính sách liên quan. Tư duy quản lý cần thay đổi, cơ quan soạn thảo chính sách cần phải hiểu rõ tính chất mới của mô hình KDNT để có tư duy mới trong quản lý, tránh khiên cưỡng áp dụng quy định cũ, cách thức quản lý cũ đối với các mô hình mới.
Để tạo động lực phát triển mạnh mẽ các dịch vụ KDNT và kinh tế số, cần hướng tới hỗ trợ doanh nghiệp, giảm thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian cấp phép các sản phẩm, dịch vụ công nghệ mới; đề xuất về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) trong khung khổ chính sách dành cho công nghệ và đột phá.
Bên cạnh việc giảm bớt các thủ tục hành chính, tăng cường hỗ trợ về vốn đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, để hoàn thiện khung khổ pháp lý nhằm khai thác hiệu quả và bền vững mô hình KDNT, theo các chuyên gia, các cơ quan chức năng cần có cơ chế để kiểm soát và xử lý đối với các hành vi vi phạm khi kinh doanh trên mạng. Với hàng nghìn ứng dụng nền tảng đang được sử dụng tại nước ta thông qua internet, trong đó có nhiều nền tảng xuyên biên giới thì việc bảo đảm an toàn cho hoạt động kinh doanh online là điều cần thiết, qua đó hạn chế tình trạng trốn thuế, ngăn ngừa dòng tiền trong nước chảy qua biên giới một cách bất hợp pháp, kiểm soát chất lượng hàng hóa lưu thông trên mạng, góp phần tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh cho các cá nhân, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực KDNT.
Bài và ảnh: VĂN ANH
Theo https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/tao-co-che-de-phat-trien-kinh-doa...
Tối thiểu 10 chữ Tiếng việt có dấu Không chứa liên kết
Gửi bình luận