UBTVQH giám sát việc quản lý, sử dụng vốn vay nước ngoài
Tiếp tục chương trình làm việc, chiều 9/8, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) nghe báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý và sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài giai đoạn 2011-2016.
Ảnh: VGP/Nguyễn Hoàng
Báo cáo về nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban tài chính - Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết, thực hiện Nghị quyết số 412/2017/UBTVQH14 ngày 24/7/2017 của UBTVQH về Chương trình giám sát của UBTVQH năm 2018, UBTVQH đã ban hành Nghị quyết số 424/NQ-UBTVQH14 ngày 23/8/2017 về việc thành lập Đoàn giám sát chuyên đề: “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý và sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài giai đoạn 2011-2016”.
Đến nay, đoàn giám sát đã nhận được báo cáo của UBND 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, báo cáo giám sát của các Đoàn đại biểu Quốc hội, Kiểm toán Nhà nước, các bộ, ngành, cơ quan liên quan. Đoàn giám sát đã làm việc với Chính phủ, một số bộ, ngành, cơ quan, 12 địa phương và nhóm các nhà tài trợ; tổ chức một hội thảo và một số hội nghị để thảo luận, lấy ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, đại diện các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức hữu quan, các chuyên gia về các vấn đề thuộc phạm vi giám sát và kết quả giám sát.
Theo ông Nguyễn Đức Hải, trong giai đoạn 2011-2016, hệ thống pháp luật của Việt Nam về quản lý nợ công nói chung và nguồn vốn vay nước ngoài nói riêng đã từng bước hoàn thiện, đồng bộ và thống nhất. Quốc hội đã ban hành Hiến pháp sửa đổi năm 2013, Luật Đầu tư công, Luật NSNN sửa đổi; Luật Đầu tư; Luật Đấu thầu; Luật Xây dựng.
Trên cơ sở các nghị quyết của Trung ương và Quốc hội, thực hiện Luật quản lý nợ công năm 2009 và căn cứ quy định của các Luật liên quan, Chính phủ đã ban hành 6 Nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 11 Quyết định và 2 Đề án định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và các khoản vay ưu đãi khác của các nhà tài trợ nước ngoài, các bộ, ngành liên quan đã ban hành 22 Thông tư và Thông tư liên tịch hướng dẫn chi tiết các vấn đề cụ thể thực hiện Luật Quản lý nợ công...
Theo đó, việc thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong huy động và quản lý vốn ODA đã theo hướng đồng bộ và nhất quán với hệ thống quản lý nhà nước về đầu tư công, hài hòa hơn về quy trình, thủ tục với các nhà tài trợ, tiệm cận với các chuẩn mực và phù hợp thông lệ quốc tế, góp phần hoàn thiện thể chế khai thác, bổ sung nguồn lực quan trọng từ bên ngoài cho công cuộc phát triển đất nước.
Qua giám sát cho thấy, các địa phương đã chủ động rà soát các văn bản có liên quan để kịp thời triển khai, hướng dẫn thực hiện công tác vận động nguồn vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi và các thủ tục quản lý đầu tư, điều hành các dự án sử dụng vốn vay nước ngoài do địa phương quản lý, góp phần tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án.
Trong giai đoạn 2011-2016, Quốc hội, Chính phủ, các cấp, các ngành đã nỗ lực trong xây dựng, ban hành văn bản pháp luật để điều chỉnh việc quản lý và sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài. Các nghị định hướng dẫn liên quan đến nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ từ khâu lựa chọn và xây dựng dự án, tổ chức thực hiện và quản lý, đến khâu kiểm tra, giám sát, đánh giá dự án.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam liên quan đến vốn ODA và vốn vay ưu đãi còn một số quy định chưa thống nhất, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa bảo đảm tính ổn định. Cụ thể là các văn bản luật, khi Luật Đầu tư công và Luật NSNN 2015 lần lượt có hiệu lực, có một số quy định dẫn đến cách hiểu khác nhau, làm phát sinh vướng mắc trong thực tiễn triển khai, trong đó nổi lên các vướng mắc trong quy định về giải ngân. Số lượng các văn bản hướng dẫn về quản lý sử dụng vốn vay nước ngoài khá nhiều, song thiếu ổn định, thường xuyên thay đổi, điều chỉnh dẫn đến nhiều địa phương lúng túng trong áp dụng. Các văn bản về quản lý và sử dụng ODA và vốn vay ưu đãi chưa ban hành kịp thời và đồng bộ với những thay đổi về luật pháp trong nước và những thay đổi trong chính sách của các nhà tài trợ khi Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình. Một số quy định còn mâu thuẫn giữa Luật và Nghị định. Quy định về quy trình, thủ tục hành chính còn thiếu nhất quán, đồng bộ giữa pháp luật ở trong nước và quy định của Nhà tài trợ...
Về định hướng huy động ODA trong giai đoạn tiếp theo, Ủy ban Tài chính - Ngân sách cho rằng, giai đoạn tiếp theo (2021-2025) Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình, theo đó, nguồn vốn ODA giảm dần (tốt nghiệp IDA năm 2017, tốt nghiệp ADF từ năm 2019), xu hướng phải tiếp cận với các nguồn vốn vay với chi phí cao hơn, trong khi nợ công, nợ Chính phủ tăng cao, sức ép trả nợ các khoản vay cũ tăng dần.
Đoàn giám sát kiến nghị một số định hướng căn bản là: Tiếp tục quán triệt và thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng về huy động, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài gắn với định hướng tái cơ cấu nền kinh tế, cơ cấu lại đầu tư công. Thực hiện nghiêm kỷ luật tài chính theo quy định của Hiến pháp, Luật NSNN và các văn bản pháp luật liên quan. Huy động vốn vay phải được kế hoạch hóa, gắn kết đồng bộ với Kế hoạch đầu tư công trung hạn, Kế hoạch vay, trả nợ quốc gia phải bảo đảm khả năng trả nợ, trong giới hạn các chỉ tiêu an toàn về nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia.
Xây dựng chiến lược và kế hoạch trong từng giai đoạn cụ thể về huy động, sử dụng vốn vay nước ngoài phù hợp với điều kiện nguồn vốn ODA, mức độ ưu đãi của các nguồn vốn các nhà tài trợ để tập trung nguồn lực đầu tư cho những lĩnh vực có tính đột phá, có sức lan tỏa, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực, góp phần thúc đẩy tăng trưởng.
Các dự án sử dụng nguồn vốn ODA và vay ưu đãi nước ngoài cần tính toán, cân nhắc, so sánh hiệu quả, chi phí so với vay trong nước, tránh lệ thuộc vào các nhà đầu tư nước ngoài; đồng thời, phải được đánh giá kỹ về hiệu quả kinh tế - xã hội và tác động đối với nợ công. Chủ động ngay từ khâu xây dựng kế hoạch, lập phương án đầu tư, giữ vị thế của Việt Nam trong đàm phán với các nhà tài trợ để bảo đảm chi phí hợp lý, bảo đảm quyền lợi và lợi ích hợp pháp của bên tiếp nhận vốn.
Đồng thời, giảm tỷ lệ cấp phát, tăng cường tỷ lệ cho vay lại để các địa phương nâng cao trách nhiệm quản lý, sử dụng vốn vay. Quản lý chặt chẽ việc bảo lãnh Chính phủ cho các khoản vay, thực hiện nghiêm các quy định cụ thể các điều kiện, tiêu chí bảo lãnh, tăng cường hơn nữa trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong cấp bảo lãnh. Thúc đẩy, tạo cơ chế cho các đơn vị tự vay, tự trả. Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu, người quyết định dự án đầu tư sử dụng vốn vay nước ngoài...
Nguyễn Hoàng( Nguồn Báo Chính phủ.vn)
Tối thiểu 10 chữ Tiếng việt có dấu Không chứa liên kết
Gửi bình luận